Tác giả: Nguyễn Xuân Lạc
Từ
một môn học trong nhà trường phong kiến theo lối cử tử, câu đối đã trở thành
một thể loại văn học cổ là thể câu đối.
Câu đối gồm hai vế hoặc hai đoạn đối nhau (đối ý, đối chữ, đối thanh) dùng để
thử tài thông minh học giỏi, bày tỏ chí hướng, mừng nhau, phúng điếu nhau hoặc
để treo ở đình chùa, miếu mạo. Câu đối phải cô đọng mới hay, câu đối thử tài
phải cầu kỳ hiểm hóc khó đối thì mới thú. Các trạng nguyên tân khoa thường phải
đối vế đối của vua trên sân rồng trước khi lĩnh áo mũ vua ban, các sứ thần
thường phải đối khi qua quan ải và nhất là khi bệ kiến vua nước mình đến, chính
là vì vậy.
Câu đối thể hiện tài trí, bản
lĩnh của con người. Đó là vốn hiểu biết sâu rộng, sự thông minh nhanh trí, khẩu
khí chí hướng của người đối. Về mặt này, chúng ta có quyền tự hào về dân tộc
Việt Nam thông minh tài trí, ứng đối mau lẹ để bảo vệ quốc thể của mình qua pho câu đối - đi sứ. Không ai quên được vế đối
đanh thép của Giang Văn Minh khi vua nhà Minh thử tài ông bằng một vế câu đối
có ý khinh miệt dân ta:
Đồng trụ chí kim đài thượng lục (Cột đồng trụ đến nay rêu đã xanh).
Ông đã dõng dạc đối lại bằng
một câu tràn đầy niềm kiêu hãnh về một dân tộc anh hùng:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ).
Còn Mạc Đĩnh Chi vì đối đáp
giỏi, tài trí tuyệt vời nên đã được vua Nguyên phong là “Lưỡng quốc trạng
nguyên”. Một lần bị mưa, đến yết kiến vua Nguyên chậm, viên quan coi cửa bắt
ông phải đối được mới cho vào. Vế đối như sau:
Quá quan trì, quan quan bế, thỉnh quá khách quá quan (Qua cửa chậm, quan coi cửa đóng cửa,
mời khách qua gặp quan coi cửa).
Vế ra có đến 4 chữ “quan”
(lại là từ đồng âm) và 3 chữ “quá” thật là hiểm hóc và khó đối. Nhưng Mạc Đĩnh
Chi đã ứng khẩu đọc luôn:
Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Ra vế đối trước thì dễ, nhưng đối
lại vế đối đó mới khó, xin nhường tiên sinh đối trước)
Viên quan coi cửa phục tài
bèn mở cửa cho ông vào.
Còn có thể dẫn ra nhiều câu
đối như vậy trong việc đi sứ cũng như trong sinh hoạt cung đình của các triều
đại phong kiến nước ta. Nhưng ở đây chúng tôi muốn nói đến một đặc điểm khá nổi
bật, có thể xem như là một xu hướng vận động của câu đối Việt Nam: đó là sự dân gian hóa, sự Việt hóa câu đối, trong
đó các yếu tố Hán Việt và thuần Việt xen kẽ nhau, hoặc có trường hợp không còn
yếu tố Hán Việt nữa, khiến cho khi đọc lên, câu đối mang sắc thái Việt Nam đậm
đà và người ta không còn nghĩ đến nguồn gốc của nó là do Hán học từ Trung Quốc
du nhập vào. Không chỉ câu đối của người bình dân được Việt hóa, mà câu đối của
các nho sĩ phong kiến, quan lại, cho đến đấng chí tôn cũng như thế. Ông vua hay
chữ Lê Thánh Tông trong ngày cuối năm đã ghé thăm và đề tặng bà chủ quán trầu
nước đôi câu đối Tết hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ:
Nếp giầu quen thói kình cơi,
con cháu
nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát,
Bắc Nam
đâu đấy lại hàng.
Còn câu đối Tết của “bà chúa
thơ Nôm” thì dân gian biết bao và tuy còn đôi từ Hán - Việt nhưng ai cũng hiểu
được:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn,
ních chặt
lại kẻo ma vương
bồng quỷ
tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa,
mở toang
ra cho thiếu nữ
rước xuân
vào.
Câu đối của Trạng Quỳnh thì vừa
tinh nghịch, xấc xược vừa biến báo như thần và đó là những câu đối Việt Nam
trăm phần trăm cả về ngôn ngữ, ý tứ và sắc thái:
Trời sinh ông Tú Cát/ Đất nứt
con bọ
hung
Miệng nhà sang có gang có thép/
Đồ nhà
khó vừa nhọ vừa thâm.
Là cháu chắt của Trạng Quỳnh
sau này, Xiển Bột đã không hổ thẹn với tiền nhân. Trong vế đối của Xiển khi còn
nhỏ, có cả tiếng chửi quan sướng miệng mà đối vẫn rất chỉnh:
Vế quan ra: Roi thất phân đánh
đít mẹ học trò
Vế Xiển đối: Lọng bát bông
che đầu cha quan lớn!
Nhưng nói đến sự Việt hóa của
câu đối, không thể không nói đến cấu trúc tu từ của từ đồng âm khiến cho câu
đối đọc lên nghe rất thú vị và dễ nhớ. Có khi là từ đồng âm thuần Việt:
Ruồi đậu mâm xôi đậu/ Kiến bò đĩa thịt bò
Nhưng thường là từ đồng âm
với nghĩa Việt và Hán khác nhau:
Ô! Quạ tha gà/ Xà! Rắn bắt ngóe
Da trắng vỗ bì bạch/ Rừng sâu
mưa lâm thâm.
Cũng có khi trong câu đối có
cả hai loại từ đồng âm nói trên mà tiêu biểu là vế ra của Đoàn Thị Điểm và vế
đối của Trạng Quỳnh:
Cây xương rồng, trồng đất rắn,
long vẫn
hoàn long
(Vế ra có hai từ đồng âm: long: từ Hán nghĩa là rồng, từ thuần việt nghĩa là không chặt; rắn: từ thuần Việt vừa
mang nghĩa con rắn, vừa mang
nghĩa cứng)
Quả dưa chuột, tuột thẳng gang,
thử chơi thì thử.
(Vế đối cũng có hai từ đồng
âm: thử: từ Hán nghĩa là chuột, từ thuần Việt nghĩa là thử chơi; gang: từ thuần Việt vừa làgang tay, gang tấc, vừa là dưa gang).
Một nét Việt hóa nữa của câu
đối là cấu trúc tu từ của từ đồng nghĩa trong câu đối. Có trường hợp là từ đồng
nghĩa hoàn toàn - các cặp từ Việt và Hán đồng nghĩa với nhau:
Cha con thầy thuốc về làng,
quảy một
gánh hồi hương phụ tử.
Nhưng nhiều hơn là những từ
đồng nghĩa không hoàn toàn, còn gọi là từ gần nghĩa, tức là những từ cùng nằm
trong một trường ngữ nghĩa với nhau, tạo ra sự liên tưởng rất thú trong câu
đối:
Kiến đậu cành cam, bò quấn quýt
Ngựa về làng bưởi, chạy lanh chanh.
Bà đồ Nứa đi võng tre,
đến khóm trúc thở dài hí hóp
Lên phố Mía, gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo (kéo) lại hỏi thăm
đường.
Trời mưa đất thịt trơn như mỡ,
giò (dò) đến hàng nem, chả muốn ăn
Gái tơ chỉ kén ngài quân tử.
Câu đối ta sử dụng tài tình
vần lưng là loại vần đặc trưng Việt Nam và sự hòa thanh bằng - trắc nhịp nhàng,
đọc lên nghe rất sướng:
Con cóc leo cây vọng cách,
nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già
Chim công đi qua chùa Kênh,
chim nghe
tiếng cồng,
chim kềnh
cổ lại.
Lại có những câu đối sử dụng
cả cấu trúc tu từ của từ đồng âm, từ đồng nghĩa, cả vần lưng và thanh điệu:
Con giai Văn Cốc, lên dốc bắn cò,
đứng lăm
le, cười khanh khách
Cô gái Bát Tràng, bán hàng
thịt ếch,
ngồi chầu chẫu,
nói ương
ương.
Tú Xương có đôi câu đối Tết
mà người Việt Nam ta ai cũng nhớ:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh.
Còn cụ Tam nguyên Yên Đổ thì
đã từng cho dân làng biết bao câu đối. Có trường hợp không biết câu đối là của
người xin chữ hay người cho chữ. Anh người làng nói: “Nay cháu kiếm một cơi
giầu đến thưa với Cụ, xin Cụ đôi câu đối để thờ ông cháu”. Cụ Tam nguyên rung
đùi đọc luôn:
Kiếm một cơi giầu thưa với Cụ
Xin đôi câu đối để thờ Ông!
Nhưng độc đáo nhất và cũng
tài tình nhất là câu đối mà cả hai vế chỉ dùng có hai chữ, khi Nguyễn Khuyến
còn là cậu học trò nhỏ. Đây là câu đối “dán chuồng lợn” để trả đũa anh trưởng
tràng, vì vậy chỉ gồm hai chữ “trưởng tràng”:
Trưởng trưởng, tràng tràng,
tràng
trưởng trưởng
Tràng tràng, trưởng trưởng,
trưởng
tràng tràng.
(Nghĩa là: Lớn lớn, dài dài,
dài lớn lớn
Dài dài, lớn lớn, lớn dài
dài)
Câu đối dán chuồng lợn là để
cầu cho lợn chóng lớn, thiết tưởng không còn câu nào hay hơn thế nữa, nhưng đã
cho anh trưởng tràng một vố thật sâu cay, nhớ đời.
Dí dỏm và thông minh là những
câu đối vui - những câu đối cực ngắn chỉ có thể tìm thấy trong văn học dân
gian. Ngày xuân, hai ông đồ cùng nhắm rượu, đối văn. Ông đồ thôn Đông gắp một
miếng chả nhai tóp tép rồi tung ra một vế đối:
Chả ngon!
Ông đồ thôn Đoài đang bí vì
cái từ “chả” hai nghĩa ấy thì may quá từ gầm giường một con cóc nhảy ra, miệng
cũng nhai tóp tép. Ông liền đối ngay:
Cóc sướng!
“Cóc” đối lại “chả” thật
tuyệt vì nó cũng mang hai nghĩa như vậy. Ông thôn Đông chịu là giỏi, vờ cắn
phải lưỡi và kêu lên:
Ái! (vừa
là tiếng kêu, lại có nghĩa là yêu).
Tiếng kêu làm ông thôn Đoài
giật mình, đánh rơi miếng thịt hoen bẩn chiếc quần sộp. Ông đối lại ngay:
Ố! (vừa
có nghĩa là hoen ố, lại có
nghĩa là ghét).
Thế là hòa cả làng. Người ra
đã hóm, người đối cũng hay. Tài trí dân gian thật tuyệt vời.
Lại có cả vế đối trữ tình mà
hàm chứa ý nghĩa sâu xa giữa vị hoàng tử và cô thôn nữ. Khi còn là một chàng
trai, một hôm Lê Thánh Tông đi dạo trên bờ một con sông đào ở vùng Thanh Hóa và
tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo dưới sông. Mến cảnh, mến người và cảm hứng
chợt đến, vị hoàng tử trẻ tuổi liền đọc vế đối:
Gạo trắng, nước trong, mến cảnh
lại càng
thêm mến cả…
Nhưng cô gái vẫn thản nhiên
vo gạo cho đến khi xong đâu đấy mới ngoái lại và đọc lên vế đối của mình:
Cát lầm, gió bụi, lo đời đâu đấy
hãy lo
cho…
Lúc bấy giờ đang thời buổi
loạn li, lời đối đầy ý nghĩa của cô gái đã nhắc khéo vị hoàng tử hãy lo việc
lớn, đem sức trai mà cứu dân giúp nước. Nhưng ba dấu chấm lửng ở cuối vế ra lẫn
vế đối lại tạo nên dư vị trữ tình ngọt ngào, gợi nhiều liên tưởng thú vị trong
người nghe. Cũng là điều ít thấy trong câu đối xưa nay.
Thời cận đại và hiện đại lại
xuất hiện câu đối… toán học chơi chữ Việt - Pháp. Đây là câu
đối giữa bố vợ và con rể, đều là người có học, biết chữ Pháp. Ông bố vợ bắt
được con ba ba, đem hầm lên để mời con rể, với điều kiện chàng rể phải đối được
vế ra của ông:
Hầm ba ba đã chín.
Câu đối quả là hóc búa, vì
“ba ba” là con ba ba, nhưng cũng là ba lần ba bằng chín (3x3=9). Chín vừa là tính từ (đã được hầm chín)
lại vừa là số từ (9). Phải đối sao cũng có phép tính nhân với tích số mang hai
nghĩa như vế ra.
Chàng rể đang bí, bỗng có chiếc
xe bò chở cát đi qua. Anh ta mừng quá, vội xin đối:
Chở cát cát đầy xe.
Vế đối cũng rất thông minh và
sáng tạo. “Cát cát” là hạt cát, nhưng tiếng Pháp, “cát” (quatre) là số 4, “cát
cát” là 4x4=16. Tiếng Pháp, 16 là seize,
đọc là xe, nên “xe” ở đây vừa là
cái xe bò, vừa là số 16, tích số của phép nhân 4x4. Thật tài tình! Vế ra chơi
chữ tiếng Việt, vế đối lại chơi chữ cả Việt - Pháp, và cả hai vế đều đối nhau
bằng phép tính nhân rất chỉnh. Chàng rể được bố vợ thưởng cho một bữa nhậu ba
ba túy lúy.
Trong nhà trường cũng có
nhiều câu đối lí thú, nhiều vế ra hiểm hóc, kiểu như: Cụ giáo làm giáo cụ; Cán bộ đi bộ ra Bộ (“ra
bộ” còn có nghĩa là “ra vẻ ta đây”),… Còn nhớ cậu học trò Đinh Thành Chương
trường Chu Văn An, Hà Nội, cách đây hơn nửa thế kỷ, đã ra vế đối để thử tài
thầy:
Giáo sư Lý dạy Hóa, hóa ra vô lý.
Và thầy Quốc Phong đã ung
dung đối lại thật tuyệt vời, đầy hàm ý:
Đệ tử Chương làm văn, văn chẳng
thành
chương.
Nguồn Văn nghệ số 6+7+8/2018